Vào ngày 20 tháng 7, 2011, tôi đáp máy bay đến Ottawa, đem theo hai va li
và một xách tay đựng đầy sách: 60 cuốn
Vu Lan Cảm Tác và 37 cuốn But
Buddha Clearly Shows The Way. Những ngày sau đó tôi rất bận rộn gói các
cuốn sách để tặng bạn bè và gia đình ở Ottawa, cùng gởi sách tặng đi
Montreal và Toronto.
Sau khi công việc hoàn tất, tôi có được vài ngày nghỉ ngơi trước khi đáp máy
bay về. Tôi cùng Thanh, Thức, và Hoàng đi thăm Tam Bảo Sơn, một tu viện Phật
Giáo ở địa hạt Harrington thuộc tỉnh bang Quebec. Chúng tôi khởi hành lúc
sáng sớm ngày 23 tháng 7 và đến nơi khoảng 9 giờ rưỡi sáng. Chúng tôi đi dạo
quanh tu viện, ngắm các bức tượng và các công trình xây cất, chụp hình và
thưởng lãm cảnh núi rừng bao la.
Vườn La Hầu La
Chúng tôi đến sớm, lại không nhằm vào ngày có lễ hội nên chùa vắng vẻ yên
tĩnh. Qua cổng chánh bên phải là một vườn nhỏ - Vườn La Hầu La.
Tôi không rõ sao vườn
này lại có tên La Hầu La. Lẫn trong đám cây thông thẳng cao là
một nhà mát (gazeebo) mái cong, giữa nhà là tượng
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát trên một bàn thờ bày trái cây cùng nhang, đèn; bên cạnh
là thùng phước sương và mấy ống tre đựng thẻ xăm. Đằng sau tượng là một bức vách
gỗ giắt đầy các phiếu đoán xăm. Té ra Vườn La Hầu La là nơi để cho bá tánh tới
xin xăm cầu Đức Quán Thế Âm cho biết vận may rủi và để cầu tài cầu lộc chăng?
Thật là một hình thức mê tín mà Đức Bổn Sư Thích Ca không bao giờ dạy chúng ta!
Chánh Điện
Phổ Đà Đạo Tràng
Tượng Đức Địa
Tạng Vương Bồ Tát
Chánh Mạng Đạo
Tràng
Bồ Đề Đạo Tràng
Vườn Lâm Tì Ni
Lộc Uyển Đạo
Tràng
Câu Thi Na Đạo
Tràng
Từ trên bao lơn sân gạch nhìn ra, cảnh núi non hùng vĩ bao quanh gây cho khách
viếng chùa một cảm giác lâng lâng thoát tục.
* * *
Hai tháng sau tôi lại có dịp đến viếng chùa. Lần đó tôi đi với Thoa, Mai,
Tường, và Tín. Năm người chúng tôi đến nơi lúc gần giờ ngọ nên chúng tôi ghé vào
nhà trai soạn dùng cơm chay trước. Rừng núi đã chớm điểm lấm tấm màu thu. Cảnh
chùa có một vài thay đổi như: các tượng Bồ Tát và A La Hán dọc hai bên đường
nhìn ra từ chánh điện đã được sơn đủ màu sặc sỡ, chớ không một màu kim nhũ như
trước. Hôm đó chánh điện mở cửa nên chúng
tôi vào lễ Phật; chánh điện chỉ có tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt sau
tượng ba vị trong Liên Trì Hội Thượng Phật Bồ Tát: Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Đức
Phật A Di Đà, và Đức Đại Thế Chí Bồ Tát.
Ngoài bức tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát ở nhà chuông, chùa mới dựng thêm một tượng
Đức Địa Tạng ở khoảng đất trống trước khi tới Câu Thi Na Đạo Tràng. Bức tượng
này rất lớn trên một khu đất lót gạch khang trang; tiếc thay, ngài Địa Tạng cũng
vẫn chỉ có thiết trượng cầm tay mà không đội mão.
Tôi cứ ngay ngáy tiếc cho một dải đất đẹp giữa núi rừng hùng vĩ trang nghiêm u
tịch, lại là chỗ để bày những công trình nắn tượng thô thiển. Lối sắp xếp các
tượng để ghi lại cuộc đời siêu việt của Đức Thích Ca Mâu Ni lại quá ấu trĩ, cẩu
thả. Màu sắc rực rỡ cùng lối trang trí cầu kỳ trên các bức tượng thể hiện cái
tâm ưa chuộng sự hào nhoáng của thế gian.
* * *
Cho đến một ngày…
Tôi tẩn mẩn giở cuốn Kinh A Di Đà diễn nghĩa của Hòa thượng Tuyên Hóa ra đọc. Ở
trang 74, nhân giảng về “thứ lớp mà khất
thực”, Hòa thượng kể lại chuyện Tôn giả Tu Bồ Đề và Tôn giả Đại Ca Diếp.
“Thứ lớp khất thực” là sao? Tức là
ngừng lại ở mỗi nhà khất thực, không bỏ nhà người nghèo khổ mà đến nhà người
giàu có để khất thực. Không thể lựa chọn mà phải bình đẳng.
Tôn giả Tu Bồ Đề chuyên đến nhà người giàu
khất thực mà không đến nhà người nghèo; ngài luận rằng: người giàu nếu đời nay
không gieo trồng phước lành thì đời sau sẽ nghèo khổ, nên ngài tạo duyên cho họ
làm lành. Ngược lại, Tôn giả Đại Ca Diếp chuyên
đến nhà người nghèo khất thực; ngài
cho rằng người nghèo rất đáng thương vì kiếp trước không tạo phước lành, cho nên
ngài tạo duyên cho người nghèo gieo hạt giống lành cho đời sau. Cả hai vị trình
bày lý do của mình, Đức Phật quở cả hai vị đều có
tâm phân biệt không bình đẳng.
Nghĩ lại, tôi thấy mình quả có tâm phân
biệt nên cho rằng các bức tượng ở Tam Bảo Sơn màu sắc quá rực rỡ, quá quê
mùa và lại bày lộn xộn không theo thứ tự thời gian; tôi có ý khen chê bài bác vì
tôi chờ đợi một công trình mỹ thuật tuyệt tác cho xứng đáng với cảnh trí u nhã
trang nghiêm. Phải chăng các nghệ nhân tạc các bức tượng đó đã tạc tượng với một
tấm lòng thành kính vô biên, và dùng các màu sắc rực rỡ để tô điểm cho những gì
họ sùng kính nhứt? Màu sắc đó tôi chê là quê mùa, nhưng đối với họ, đó là tột
đỉnh của nghệ thuật chăng? Tôi cần phải dẹp bỏ cái
tâm phân biệt đó, phải nhìn các sự vật như nhau, như “sắc
bất dị không, không bất dị sắc” trong bài Bát Nhã Tâm Kinh mà tôi tụng
mỗi ngày.
Cuộc viếng thăm Đại Tòng Lâm đã dạy tôi điều căn bản đó, tôi tập hoài mà vẫn
chưa thực hành được!
Tien Le Publisher 2011 - All Rights Reserved